Ngày tháng: 21/12/2024
Đang truy cập: 55

NIỀM VUI NGÀY CỨU CHUỘC HAY NỖI BUỒN NGÀY TẬN THẾ (1)

Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật I Mùa Vọng - Năm C (Lc 21,25-28.34-36)

NIỀM VUI NGÀY CỨU CHUỘC HAY NỖI BUỒN NGÀY TẬN THẾ.

 

Bản văn Tiếng Hy Lạp và Bản Việt Ngữ sát nghĩa

 

Hy Lạp

Việt

  25  Καὶ ἔσονται σημεῖα ἐν ἡλίῳ καὶ σελήνῃ καὶ ἄστροις, καὶ ἐπὶ τῆς γῆς συνοχὴ ἐθνῶν ἐν ἀπορίᾳ ἤχους θαλάσσης καὶ σάλου,

 

 26 ἀποψυχόντων ἀνθρώπων ἀπὸ φόβου καὶ προσδοκίας τῶν ἐπερχομένων τῇ οἰκουμένῃ, αἱ γὰρ δυνάμεις τῶν οὐρανῶν σαλευθήσονται.

 

 27 καὶ τότε ὄψονται τὸν υἱὸν τοῦ ἀνθρώπου ἐρχόμενον ἐν νεφέλῃ μετὰ δυνάμεως καὶ δόξης πολλῆς.

 

 28 ἀρχομένων δὲ τούτων γίνεσθαι ἀνακύψατε καὶ ἐπάρατε τὰς κεφαλὰς ὑμῶν, διότι ἐγγίζει ἡ ἀπολύτρωσις ὑμῶν.

 

 29  Καὶ εἶπεν παραβολὴν αὐτοῖς· ἴδετε τὴν συκῆν καὶ πάντα τὰ δένδρα·

 

 30  ὅταν προβάλωσιν ἤδη, βλέποντες ἀφ᾽ ἑαυτῶν γινώσκετε ὅτι ἤδη ἐγγὺς τὸ θέρος ἐστίν·

 

 31 οὕτως καὶ ὑμεῖς, ὅταν ἴδητε ταῦτα γινόμενα, γινώσκετε ὅτι ἐγγύς ἐστιν ἡ βασιλεία τοῦ θεοῦ.

 

 32 ἀμὴν λέγω ὑμῖν ὅτι οὐ μὴ παρέλθῃ ἡ γενεὰ αὕτη ἕως ἂν πάντα γένηται.

 

 33 ὁ οὐρανὸς καὶ ἡ γῆ παρελεύσονται, οἱ δὲ λόγοι μου οὐ μὴ παρελεύσονται.

 

 34 Προσέχετε δὲ ἑαυτοῖς μήποτε βαρηθῶσιν ὑμῶν αἱ καρδίαι ἐν κραιπάλῃ καὶ μέθῃ καὶ μερίμναις βιωτικαῖς καὶ ἐπιστῇ ἐφ᾽ ὑμᾶς αἰφνίδιος ἡ ἡμέρα ἐκείνη

 

 35 ὡς παγίς· ἐπεισελεύσεται γὰρ ἐπὶ πάντας τοὺς καθημένους ἐπὶ πρόσωπον πάσης τῆς γῆς.

 

 36  ἀγρυπνεῖτε δὲ ἐν παντὶ καιρῷ δεόμενοι ἵνα κατισχύσητε ἐκφυγεῖν ταῦτα πάντα τὰ μέλλοντα γίνεσθαι καὶ σταθῆναι ἔμπροσθεν τοῦ υἱοῦ τοῦ ἀνθρώπου. (Lk. 21:25-36 BGT)

 25 Sẽ có những dấu lạ nơi mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao và trên mặt đất có sự hoảng sợ của các dân ở trong nỗi lo lắng vì tiếng gầm của biển và sóng.

 

 26 Người ta nín thở vì sợ và đợi chờ điều xảy đến cho cư dân trên trái đất, vì các quyền lực trên trời sẽ lay chuyển.

 

 27 Rồi, họ sẽ nhìn thấy Con Người đến trong đám mây với nhiều quyền năng và vinh quang.

 

 28 Nhưng khi những điều này xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì ơn cứu chuộc anh em đã gần kề.

 

 29 Và Người nói với họ một dụ ngôn. Anh em hãy nhìn xem cây vả và tất cả các loại cây.

 

 30 Khi nó đâm chồi nẩy lộc rồi, khi quan sát từ chúng, anh em biết rằng mùa hè đã gần kề rồi.

 

 31 Cũng như vậy, khi thấy những điều này xảy ra, anh em biết rằng Nước Thiên Chúa đã gần kề.

 

 32 Amen, Thầy bảo thật anh em, thế hệ này sẽ không qua đi, cho đến khi tất cả xảy ra.

 

 33 Trời và đất sẽ qua đi, nhưng những lời của Thầy sẽ không qua đi.

 

 34 Anh em hãy chú ý, kẻo lòng của anh em bị đè nặng bởi uống quá chén và say sưa và lo lắng của cuộc sống này và ngày bất ngờ ấy có thể xảy đến trên anh em.

 

 35 Như chiếc bẫy, vì nó sẽ xảy đến bất ngờ trên tất cả những ai cư ngụ trên toàn mặt đất.

 

 36 Hãy canh chừng trong mọi lúc, cầu xin để anh em có thể mạnh sức mà thoát khỏi những điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.

Bối Cảnh

Lời Chúa trong bối cảnh Mùa Vọng tiếp nối chủ đề về ngày cánh chung trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Đoạn Tin Mừng Lc 21,25-36 trích trong loạt những trình thuật về thời cánh chung của Tin Mừng Luca (Lc 21,5-37). Tiếp theo sau lời tiền báo về những ngày cuối cùng của Jêrusalem, Luca chuyển qua những dự báo về những ngày cuối cùng của thế giới[1]. Cũng như Jêrusalem đối diện với một sự khủng hoảng khi Đức Giêsu tiến vào giảng dạy, thế giới cũng đối diện với khủng hoảng như thế khi Con Người đến trong vinh quang[2]. Luca theo sát Tin Mừng Máccô và Mátthêu trong hai trình thuật “Những điềm lạ trên trời và Con Người quang lâm” (Lc 21,25-28; Mt 24, 29-31; Mc 13,24-27); và “Ví dụ về mùa thay lá của cây vả” (Lc 21,29-33; Mt 24,32-35; Mc 13,28-31). Trình thuật về lời dạy “hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (21,34-36) là trình thuật riêng của Luca. Cũng giống như các Tin Mừng Nhất Lãm khác, đoạn văn nói về sự quang lâm của Con Người được đặt ngay sau những trình thuật “báo trước về sự sụp đổ của thành Jêrusalem” (Lc 21,5-19); “Jêrusalem bị bao vây” (Lc 21,20-23b). Ngoài những đoạn chia sẻ chung với hai tác giả Nhất Lãm còn lại, Luca cũng thêm một đoạn ngắn về “thời của dân ngoại” (Lc 21,23b-24). Về chủ đề, hình ảnh “Con Người đến trong vinh quang và đầy quyền năng gợi nhớ đến” hình ảnh Con Người trong sách ngôn sứ Đaniel, cũng ngự giá mây trời mà đến (Đn 7,13). Chủ đề liên quan đến sự cứu chuộc đã được Luca nói nhiều lần trong Tin Mừng và cả trong sách Công Vụ (Lc 1, 68; 2, 38; 21, 28; 24, 21; Cv 7, 35). Đây cũng là đề tài trải rộng trong các thư của thánh Phaolô. Chủ đề “cầu nguyện” cũng là một chủ đề rất phổ biến trong Tin Mừng Luca nói riêng và Tin Mừng Nhất Lãm nói chung. “Tỉnh thức”, “Coi chừng” cũng là một mệnh lệnh quan trọng trong Tin Mừng Luca và Mátthêu (Mt 6, 1;7, 15; 10, 17; 16, 6; 16, 11; Lc 12, 1; 17, 3; 20, 46; 21,34.36; Cf. Cv 5, 35; 20, 28; Mc 13, 33). Ngoài ra, “vinh quang và quyền năng” của Đức Giêsu cũng là đề tài quan trọng không kém trong truyền thống Tân Ước. “Nước Thiên Chúa” là một chủ đề trọng yếu bao trùm toàn bộ sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu.

Cấu trúc

   (A) Dấu lạ trên trời dưới đất (21, 25a)

          Các dân: Hoảng sợ và nín thở đợi chờ tai họa (21,25b-26)

               Con Người Đến đầy quyền năng và vinh quang (21, 27a)

          Anh em: Đứng thẳng và ngẩng đầu đợi chờ ơn cứu độ (21, 28)

  (B) Ví dụ cây vả và tất cả các loại cây (21, 29)

          Thấy đâm chồi nẩy lộc (21, 30a)

               biết mùa hè đã gần kề rồi (21, 30b)

          Thấy những điều này xảy ra (21, 31a)

               biết Nước Thiên Chúa đã gần kề (21, 31b)

  (C) Lời Thầy nói sẽ không qua đi (21,32-33)

          Thế hệ này sẽ không qua đi

             cho đến khi tất cả xảy ra

             Trời và đất sẽ qua đi nhưng

          những lời của Thầy sẽ không qua đi

  (D) Hãy để ý (21, 34a)

          để không say sưa và lo lắng của cuộc sống này (21,34-35a)

     Hãy canh chừng và khẩn cầu (21, 36a)

          để có thể mạnh sức mà thoát khỏi và đứng vững (21, 36b)

Một số điểm chú giải[3]

1.     Dấu lạ nơi mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao … tiếng gầm thét của biển và sóng… quyền lực trên trời lay chuyển: Luca lấy lại dữ liệu từ Máccô. Tuy nhiên, khác với Mátthêu – lặp lại gần như hoàn toàn dữ liệu của Máccô – tác giả Luca sửa lại và thêm vào các nguồn riêng của mình khá nhiều. Đức Giêsu của Máccô cho biết rằng “mặt trời sẽ ra tối tăm”; “mặt trăng sẽ không còn chiếu sáng”, còn “các ngôi sao thì rơi xuống” (Mc 13,24-25a). Đức Giêsu của Luca chỉ nói là có những dấu lạ nơi mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao[4]. Luca dường như không muốn cụ thể hóa các điềm lạ ấy, hoặc là ông giả định rằng độc giả đã biết Tin Mừng Máccô nên không cần nhắc lại những điềm lạ cách cụ thể nữa. Cũng có thể vì trước đó, Luca đã nói đến những tai họa cụ thể rồi: Những trận động đất lớn, nạn đói khắp nơi và ôn dịch, tai ương kinh khủng, những dấu lạ lớn trên trời (21,11). Đức Giêsu của Luca còn thêm vào chuyển động của biển và sóng. Dường như tác giả muốn có sự cân bằng của những sự lạ trên trời và dưới biển. Luca giữ lại chi tiết “các quyền lực trên trời sẽ lay chuyển” giống như Máccô (Lc 21, 26; Mc 13, 25b).

 

 

Mc 13,24-27 Lc 21,25-28

24 “Nhưng trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng,

25 các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển.

26 Bấy giờ, thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.

27 Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.

25 Sẽ có những dấu lạ nơi mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao và trên mặt đất, sự hoảng sợ của các dân tộc trong nỗi lo lắng vì tiếng gầm của biển  và sóng.

26 Người ta nín thở vì sợ và đợi chờ điều xảy đến cho trái đất, vì các quyền lực trên trời sẽ lay chuyển.

27 Rồi, họ sẽ nhìn thấy Con Người đến trong đám mây với nhiều quyền năng và vinh quang.

28 Nhưng khi những điều này xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì ơn cứu chuộc của anh em đã gần kề.

 

 2.     Các dân hoảng sợ …người ta nín thở: Đối lại với những điềm lạ trên trời là những điềm lạ dưới đất. Phản ứng của các quyền lực trên trời cũng song song với phản ứng của con người dưới đất. Trên trời, các quyền lực lay chuyển, dưới đất các dân tộc hoảng sợ. Giêsu của Máccô hoàn toàn không nói gì đến phản ứng của con người dưới đất. Giêsu của Luca dường như quân bình hơn khi đề cập đến phản ứng của các dân tộc trên mặt đất. Cám xúc của họ được mô tả cách cụ thể và phong phú: “hoảng sợ”; “lo lắng”; “nín thở vì sợ”; và “đợi chờ điều sắp xảy đến”. Nói chung, cảm giác của các dân tộc là lo lắng, bất an trước những sự lạ trên trời dưới đất.

3.     Con Người đến: Hình ảnh Con Người đến trong đám mây đầy quyền năng và vinh quang là hình ảnh mấu chốt, trung tâm của trình thuật cánh chung. Chính vì thế, cả Mátthêu, và Luca đều lấy lại dữ liệu từ Máccô một cách hoàn toàn về hình ảnh này. “Con Người” (viết hoa) là một trong danh xưng mang tính Kitô học rất quan trọng trong truyền thống Tin Mừng. Trong Luca, chúng ta có thể nhắc đến những điểm cốt lõi liên quan đến Con Người như sau. “Con Người có quyền tha tội” (Lc 9, 24); “Con Người làm chủ của ngày Sabát” (Lc 6, 5); “Con Người ăn uống, làm bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7, 34); “Con Người chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22.44; 24, 7 Cf. 18, 31; 22,22.48); “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thiên thần” (Lc 9,26; 21,27; 22,69); “Con Người sẽ đến cách bất ngờ” (Lc 12, 40; Cf. 17,22.24.26;); “Con Người lang thang không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58); “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19, 10). Như vậy, trong Luca, Con Người được mô tả trải dài từ đau khổ đến vinh quang. Việc Con Người đến trong vinh quang và quyền năng là hoàn tất mầu nhiệm cứu độ mà Người đã khởi sự trên mặt đất. Nơi đây chúng ta có thể nghe phảng phất dụ ngôn về một vị vua đi lãnh nhận vương quyền rồi trở lại thưởng hay phạt các thần dân của mình (Lc 19,11-27). Nhất là, hình ảnh Con Người gợi nhớ cách cụ thể đến Đn 7, 13, nói về Con Người đến trong đám mây. Luca diễn tả Đức Giêsu trở lại như một cuộc thần hiện[5]. Vai trò của Con Người trong Mc 13,26-27 là vai trò kép: Phán xét (c.26) và tập họp những người được chọn. Trong Luca, vai trò phán xét được giữ nguyên và vai trò triệu tập được thay bằng vai trò giải thoát[6].

4.     Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên: Nơi Máccô, sau khi đến Con Người sẽ sai các thiên thần đi và sẽ tập họp những “người được chọn từ khắp bốn phương”, trong khi đó, trong Luca, người ta không thấy hình ảnh của “những người được chọn”[7]. Hình ảnh được Đức Giêsu nói đến trực tiếp là nhân vật ngôi thứ hai số nhiều “anh em”. Đối tượng ngôi thứ hai số nhiều (anh em) trong bối cảnh này rất có thể là các môn đệ, hoặc có thể mở rộng ra cho các tín hữu trong cộng đoàn Luca. Đối lại với hình ảnh của các dân tộc hoảng sợ và nín thở trước những điềm lạ trên trời dưới đất, các môn đệ được mời gọi “đứng thẳng” và “ngẩng đầu lên”. “Đứng thẳng” và “ngẩng đầu” tượng trưng cho sự tự tin, mạnh mẽ, mong chờ cách hạnh phúc ngược lại với sự hoảng sợ, lo lắng, nín thở của các dân khác. Danh từ “các dân” (ἔθνος) thường được dùng để chỉ các dân ngoại, những người không tin vào Chúa. Ngay trước đoạn này, Đức Giêsu nói đến thời điểm dân Jêrusalem “bị ngã gục dưới lưỡi gươm và bị đày đi khắp các dân ngoại, Jêrusalem sẽ bị các dân ngoại giày xéo cho đến khi mãn thời các dân ngoại” (Lc 21, 24). Nói cách khác, đây chính là thời khắc các môn đệ, và cộng đoàn các tín hữu đang mong chờ, trong khi dân ngoại thì cố tránh. Trái ngược lại với cuộc phán xét sẽ được tiến hành trên thế giới, các môn đệ Đức Giêsu có thể cảm nhận ơn cứu độ của họ trong tầm tay[8]. Động từ “đứng thẳng” (ἀνακύπτω) được dùng để mô tả người phụ nữ lưng còng, không thể “đứng thẳng” suốt mười tám năm. Ngay sau khi Đức Giêsu đặt tay chữa lành, bà liền tôn vinh Thiên Chúa. Đó là một dấu lạ mang lại ơn cứu chuộc, giúp người phụ nữ có thể đứng thẳng lên được[9].

5.      Ơn cứu chuộc: Đây là điểm khác biệt quan trọng nữa giữa bản văn Luca và Máccô. Máccô không hề đề cập đến ơn cứu chuộc. Máccô chỉ nói đến việc những người được chọn được quy tụ về từ bốn phương. Có thể, trong cách nói này Máccô đã bao hàm sự “cứu chuộc” hoặc là “phần thưởng” dành cho những “người được chọn”. Rõ ràng, Luca cụ thể hơn trong việc đề cập đến kết cục của cánh chung: “Sự Cứu Chuộc”[10].  “Sự Cứu Chuộc” là thuật ngữ mang đậm dấu ấn của Luca. Trong bài Magnificat (chỉ có trong Luca), Đức Maria đã chúc tụng Đức Chúa “đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người” (ἐπεσκέψατο καὶ ἐποίησεν λύτρωσιν τῷ λαῷ αὐτοῦ, Lc 1, 68). Trong trình thuật về nữ ngôn sứ Anna (chỉ có trong Luca), tác giả cũng cho biết là bà Anna đã “nói về Hài Nhi (Giêsu) cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Jêrusalem” (πᾶσιν τοῖς προσδεχομένοις λύτρωσιν Ἰερουσαλήμ, Lc 2, 38). Hai môn đệ trên đường về Emmaus cũng đã hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ “cứu chuộc Israel” (ὁ μέλλων λυτροῦσθαι τὸν Ἰσραήλ, Lc 24, 21). Cựu Ước nói đến ba ý nghĩa khác nhau của sự cứu chuộc. (1) Chuộc tài sản: Một thuật ngữ pháp lý được áp dụng cho việc chuộc lại tài sản thừa kế, thành viên gia đình khỏi nô lệ, hoặc những vật dụng và tài sản (Lv 25,25.47-49; 27,15-20; R 4,1-6; Tv 72,4.14; Gr 32,1-15). (2) Chuộc con đầu lòng/ con vật đầu lòng: Chuộc lại con đầu lòng bằng cách trả một số tiền hay lễ vật (Ds 3,45-51; 18,15-17; Xh 21,8.30). Đặc biệt trong những trường hợp đổ máu người khác (Ds 35,31-32) và trường hợp Chúa hành động trong một cách thức cứu chuộc cho dân Người (Xh 6,6; 15,13; Đnl 7,8 Tv 19,1; 25,22; 106,10; Is 41,14). (3) Ý niệm thần học chuyên biệt về sự cứu chuộc đặt nặng vào sự hồi phục, tái thiết lập tương quan của Chúa với dân Người sau khi họ đã nổi loạn, và bất trung. Ý niệm này thường được gọi là “giá chuộc”, “sự chuộc tội” (Tv 49,7-8;13,8; Xh 21,30). Trong Tân Ước, sự chuộc được hoàn thành trong cái chết hiến tế của Đức Giêsu (Rm 3,23-25; 8, 23; 1 Cr 1, 30; 6, 20; 7, 23; Ep 1,7.14; 4, 30; Cl 1, 14; Gl 3, 13; 4, 5; Dt 9, 15; 1Pr 1,18-19)[11]. Công trình cứu chuộc sẽ được Đức Kitô hoàn tất trong ngày cánh chung.

---Còn tiếp---

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD

Nguồn: https://josephpham-horizon.blogspot.com/2021/11/niem-vui-ngay-cuu chuoc-hay-noi-buon.html?utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo

(cập nhật ngày 29/11/2024)


[1] J.A. Fitzmyer,  The Gospel according to Luke X–XXIV. Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) 28A, 1348;  J.B. Green, The Gospel of Luke (NICNT; Grand Rapids 1997) 739.

[2] J.A. Fitzmyer,  The Gospel according to Luke X–XXIV, 1349.

[3] Nhiều điểm chú giải của đoạn Tin Mừng này sẽ được tìm thấy trong phần chú giải của Mc 13,24-32 [x. J.P.D. Thạch, “Không Ai Biết Ngày Đó Giờ Đó, Kể Cả Người Con”, LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: KHÔNG AI BIẾT NGÀY ĐÓ GIỜ ĐÓ, KỂ CẢ NGƯỜI CON. Chú Giải Tin Mừng CN XXXIII TN B (Mc 13,24-32) (josephpham-horizon.blogspot.com)

[4] “Now they take place not directly in the sky but in the three celestial bodies known to ancient science: the sun, the moon, and the stars. That is to say, they will occur by day as well as by night.” [F. Bovon, Luke 3. A Commentary on the Gospel of Luke 19:28–24:53 (ed. H. Koester) (Hermeneia; Minneapolis 2012) 116].

[5] J.B. Green, The Gospel of Luke, 740.

[6] J.A. Fitzmyer,  The Gospel according to Luke X–XXIV, 1350.

[7] Theo M. Hamm, Luca bỏ qua chi tiết cho về cuộc triệu tập này có lẽ vì ông sẽ đề cập một cuộc triệu tập của Giáo Hội được ghi lại trong sách Công Vụ Tông Đồ, được bắt đầu từ sau Lễ Ngũ Tuần cho đến khi Nước Trời tỏ hiện cách hoàn toàn [M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary (Ed. R.J. Clifford et al.) (New York 2018) 1092].

[8] J.A. Fitzmyer,  The Gospel according to Luke X–XXIV, 1349; F. Bovon, Luke 3, 118.

[9] F. Bovon, Luke 3, 119.

[10] “the term “deliverance” (ἀπολύτρωσις), which is unusual in Luke, undoubtedly coming from the source he used, but along with “salvation” (σωτηρία) and “visitation” (ἐπισκοπή) is part of the New Testament vocabulary of salvation” (F. Bovon, Luke 3, 119.)

[11] X. J.E. Alsup, The HarperCollins Bible Dictionary (ed. P.J. Achtemeier) (New York 1996) “Redemption”, 920; “The New Testament texts use the term with various nuances: (a) the total eschatological liberation brought about by Christ (here as well as in Rom 8:23; Eph 1:14; 4:30); (b) the status of the liberated person (Col 1:14; Eph 1:7); (c) by metonymy, the person of Christ the redeemer (1 Cor 1:30)” (F. Bovon, Luke 3, 120).

zalo
zalo